callpc

Tác dụng chống oxy hóa của Curcumin dạng sinh khả dụng cao trên bệnh nhân có khối u rắn

Tác dụng chống oxy hóa của Curcumin dạng sinh khả dụng cao trên bệnh nhân có khối u rắn

               Curcuminoids, bao gồm Curcumin, demethoxycurcuminbisdemethoxycurcumin là các polyphenol sinh học có nguồn gốc từ thân rễ loài Nghệ với nhiều tác dụng dược lý và lợi ích đối với sức khỏe đã được báo cáo. Trong đó, đang được quan tâm hơn cả là tác dụng chống khối u và chống viêm. Curcuminoids tương tác với nhiều phân tử đích và điều khiển một số tín hiệu liên quan đến việc hình thành, phát triển và tăng sinh khối u. Curcuminoids kích thích sinh ra các protein hoạt hóa apoptotic (chết theo chương trình) (p53 và caspases); giảm các chất chống apoptotic (BCL-2 và BCL-XL); giảm sự biểu hiện của các cytokine tiền viêm (VD: Yếu tố hoại tử khối u-TNFα, yếu tố tăng trưởng nội mô-VEGF, interleukin-1 (IL-1), IL-2, IL-6, IL-8, IL-12) thông qua việc ức chế con đường NF- κB, ức chế cyclooxygenase-2 (COX-2) và matrixoproteinase gian bào (MMPs), ngăn chặn sự tăng sinh tế bào thông qua điều hòa xuống cyclin D1, β-catenin và Akt. Cùng với những tác dụng trên, curcuminoids có hiệu quả trong việc thiết lập lại cân bằng oxy hoá thông qua việc phục hồi cơ chế sinh học tự chống oxy hóa như kích thích các enzyme chống oxy hóa và hoạt hóa Nrf2-HO-1. Tác dụng chống oxy hóa, chống viêm của Curcuminoids làm cho chúng trở thành ứng cử viên đầy hứa hẹn trong điều trị ung thư. Ngoài ra, Curcuminoids còn có tính an toàn cao và khả năng dung nạp tốt.

    Curcuminnoids và thành phần của nó

          Năm 2013, nhóm tác giả đến từ Đại học Khoa học Y tế Baqiyatallah, Tehran, Iran và Đại học Y khoa Mashhad, Mashhad, Iran đã thực hiện một nghiên cứu lâm sàng nhằm đánh giá tác dụng chống oxy hóa của Curcumin dạng sinh khả dụng cao trên bệnh nhân có khối u rắn.

         Nghiên cứu được tiến hành tại Phòng khám ung thư của bệnh viện Baqiyatallah, Tehran, Iran. Đối tượng của nghiên cứu bao gồm nam giới và nữ giới từ 25-65 tuổi, có khối u rắn đã được xác định bằng lâm sàng, cận lâm sàng và mô bệnh học. Các tiêu chuẩn loại trừ gồm có: tiền sử mẫn cảm với các chế phẩm thảo dược; không sử dụng thuốc nghiên cứu trong hơn 2 tuần; không dung nạp với thuốc; làm bệnh trầm trong thêm đến mức không thể kiểm soát; xuất hiện các tác dụng không mong muốn nghiêm trọng trong quá trình điều trị.

        Nghiên cứu này được thiết kế như một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên mù đôi có đối chứng. Đối tượng đạt tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu được chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm. Nhóm 1 (n=40) sử dụng Curcuminoids (180 mg/ngày). Nhóm 2 (n=40) sử dụng giả dược. Thời gian sử dụng thuốc kéo dài 8 tuần. Tất cả các bệnh nhân tiếp tục được điều trị bằng hóa trị liệu tiêu chuẩn trong thời gian thử nghiệm. Curcuminoids được dùng ở dạng phytosomal (Meriva®, Indena S.p.A, Pescana, Italy) với liều tối ưu theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Meriva® là dạng phức hợp phytosome của CurcuminoidsLecithin với tỉ lệ khối lượng 1:2, cho sinh khả dụng cao gấp 30 lần dạng curcuminoids đơn độc.

         Phân tích sinh hóa được tiến hành với mẫu máu nhịn đói thu thập tại thời điểm bắt đầu và kết thúc thử nghiệm. Mẫu máu được ly tâm ở 750g trong 10 phút. Mẫu huyết thanh thu được giữ ở -80°C cho đến khi phân tích. Mức độ superoxide dismutase (SOD) và catalase (CAT) cũng như nồng độ của glutathion (GSH) và các chất phản ứng với acid thiobarbituric (TBARS) được xác định quang phổ bằng phương pháp thường quy.

        Chất lương cuộc sống (QoL) được đánh giá bằng thang điểm QoL Đại học Washinton (UW-QoL) phiên bản 4. Thang điểm này bao gồm 12 mục, điểm số cho mỗi mục dao động từ 0 (QoL tồi tệ nhất) đến 100 (QoL tốt nhất).

        Phân tích thống kê được thực hiện bằng phần mềm SPSS phiên bản 11.5. So sánh được thực hiện bằng T-test (đối với dữ liệu phân phối bình thường)  hoặc Mann-Whitney U test (đối với trường hợp không bình thường dữ liệu phân tán).

     Kết quả:

     

    Tổng

    Curcuminoids

    Giả dược

    p

    n

    80

    40

    40

     

    Tuổi

    58.95±15.31

    59.58±14.63

    58.33±16.10

    0.724

    Nữ (%)

    37.5%

    32.5%

    42.5%

    0.609

    Cân nặng (kg)

    68.09±13.26

    68.89±12.73

    67.38±13.85

    0.630

    Hút thuốc (%)

    14.5%

    13.5%

    15.4%

    0.817

    Xạ trị (%)

    17.4%

    12.1%

    22.2%

    0.269

    Loại ung thư:

     

     

     

     

          Đại trực tràng

    25.0%

    23.7%

    26.5%

    0.808

          Dạ dày

    19.4%

    21.1%

    17.6%

     

          Vú

    16.7%

    13.2%

    20.6%

     

          Khác

    38.9%

    42.1%

    35.3%

     

    Bảng 1: Đặc điểm của mẫu nghiên cứu.

         Từ Bảng 1 cho thấy: không có sự khác biệt về số lượng, tuổi, giới tính, cân nặng, thói quen hút thuốc, lịch sử xạ trị, tỉ lệ các loại ung thư giữa nhóm dùng Meriva® (Curcuminoids) và nhóm dùng giả dược.

     

     

    Giả dược (Placebo)

    Curcuminoids

    Trước

    Sau

    P

    Trước

    Sau

    p

    CAT (U/ml)

    10.21±1.76

    9.57±1.71

    0.016

    14.08±3.13

    27.93±4.49

    <0.001

    SOD (U/ml)

    0.70±0.19

    0.08±0.24

    0.031

    0.75±0.33

    2.43±0.62

    <0.001

    GSH (mg/ml)

    8.85±1.87

    11.74±4.25

    <0.001

    10.69±3.08

    20.96±3.40

    <0.001

    TBARS (nmol/ml)

    24.38±3.18

    25.44±4.75

    0.047

    25.53±3.75

    20.23±21.32

    <0.001

    Bảng 2: So sánh giá trị các chỉ số liên quan tới cân bằng oxy hóa trước và sau thử nghiệm

    Từ bảng 2 cho thấy:
    + Trong nhóm điều trị bằng Meriva®, SOD (p <0,001) và CAT (p <0,001) cũng như GSH (p <0.001) tăng đáng kể trong khi mức TBARS giảm xuống (p <0.001) sau giai đoạn thử nghiệm.
    + Trong nhóm giả dược, SOD (p = 0.031), GSH (p <0.001), TBARS (p = 0,047) tăng đáng kể trong khi CAT giảm (p = 0.16) vào cuối giai đoạn thử nghiệm

     

     

    Curcuminoids

    Placebo

    p

    CAT (U/ml)

    13.85±5.04

    -0.65±1.63

    <0.001

    SOD (U/ml)

    1.67±0.64

    0.10±0.30

    <0.001

    GSH (mg/ml)

    10.27±3.63

    2.90±4.60

    <0.001

    TBARS (nmol/ml)

    -5.30±21.45

    1.05±5.06

    <0.001

    Bảng 3: So sánh sự thay đổi nồng độ các yếu tố  liên quan đến sự oxy hóa trong huyết tương

      So sánh mức độ sự thay đổi giữa các nhóm cho thấy hiệu quả lớn hơn của curcuminoids so với giả dược trong việc cải thiện lượng SOD, CAT, GSH, và giảm nồng độ TBARS (p <0,001)

    • Chất lượng cuộc sống

         Điểm QoL tăng đáng kể đối với cả nhóm curcuminoids (p <0,001) và nhóm giả dược (p <0,001) khi kết thúc thử nghiệm. Tuy nhiên, sự gia tăng QoL trong nhóm curcuminoids lớn hơn đáng kể so với nhóm giả dược (p <0,001). Trong nhóm giả dược, điểm QoL được cải thiện ở 79,5% đối tượng, trong khi số điểm còn lại của các đối tượng không thay đổi (10,3%) hoặc xấu đi (10,3%). Trong nhóm curcuminoids, tất cả các đối tượng đều có cải thiện QoL (Hình 1). Tỷ lệ các đối tượng có điểm số QoL được cải thiện khi kết thúc thử nghiệm cao hơn đáng kể trong nhóm curcuminoids so với nhóm giả dược (p = 0.003).

    Hình 1: Sự thay đổi chất lượng cuộc sống trước và sau thử nghiệm ở 2 nhóm

       Như vậy, kết quả nghiên cứu này cho thấy Curcumin dạng sinh khả dụng cao có hiệu quả trong việc ức chế sự mất cân bằng oxy hóa ở những bệnh nhân có khối u rắn được điều trị hóa chất. Tác dụng chống oxy hoá tích cực của curcuminoids trong nghiên cứu này kèm theo sự cải thiện đáng kể của QoL. Mặc dù tác dụng có lợi của curcuminoids trong liệu pháp điều trị ung thư được báo cáo nhiều trên các dữ liệu trong phòng thí nghiệm và tiền lâm sàng nhưng bằng chứng lâm sàng vẫn còn khan hiếm. Trong tương lai, cần thực hiện thêm nhiều nghiên cứu lâm sàng hơn nữa để khẳng định hiệu quả của Curcumin.

     
    Contact Me on Zalo