callpc

Vai trò của Meriva® trong việc làm giảm tác dụng không mong muốn của các liệu pháp điều trị ung thư

Vai trò của Meriva® trong việc làm giảm tác dụng không mong muốn của các liệu pháp điều trị ung thư

    Mặc dù có nhiều phương pháp điều trị mới ra đời, song ung thư vẫn là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong, chiếm ¼ số người chết ở các nước phương Tây, chỉ đứng sau bệnh lý tim mạch. Ước tính có khoảng  569.490 người Mỹ chết vì ung thư vào năm 2010 (American Cancer Society 2010). Cùng với đó, chi phí điều trị ung thư cũng tăng vọt. Điều trị ung thư trở thành một nhiệm vụ đầy thách thức và nhận được nhiều sự quan tâm. Tuy nhiên, việc duy trì tình trạng sức khỏe, chăm sóc hỗ trợ và cải thiện chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư lại nhận được ít sự quan tâm hơn. Đa số các nghiên cứu về ung thư đều được định hướng về mặt điều trị mà không quá coi trọng việc chăm sóc hỗ trợ sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư. Do tính an toàn khi sử dụng lâu dài và cơ chế hoạt động đa hướng, các sản phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên được coi là ứng cử viên chính cho việc hóa trị liệu. Chúng có tiềm năng lớn trong chăm sóc hỗ trợ sau điều trị ung thư không phẫu thuật (hóa chất và xạ trị) do ảnh hưởng tới con đường gây viêm và tác động đến quá trình oxy hóa. Trong số những sản phẩm có nguồn gốc từ thiên nhiên ấy, Curcumin, với những bằng chứng trên tiền lâm sàng, đã cho thấy có thể ức chế sự hình thành ung thư ở giai đoạn đầu và giai đoạn tiến triển (Steward and Gescher, 2008). Cơ chế của curcuminức chế chức năng của các enzym sinh ROS (chất oxy hóa hoạt động), lipid viêm (COX, LO, xanthine oxidase, NOs), các yếu tố phiên mã viêm (NF-kB, STAT3) và kinase (PKC, EGFR tyrosinekinase), cũng như tăng cường hoạt động của các con đường chống oxy hóa thông qua hoạt hóa Nrf2. Tuy nhiên, curcumin gặp phải một vấn đề lớn về sinh khả dụng. Sinh khả dụng đường uống của curcumin rất thấp, do đó, cần một liều lượng rất lớn để cho tác dụng (lên đến 8 gam). Việc này gây khó nuốt, vị giác khó chịu và rối loạn đường ruột cho người sử dụng. Đã có nhiều phương pháp cải tiến công thức của curcumin nhằm tăng sinh khả dụng cho hợp chất này, trong đó có Meriva® (phức hợp phytosome của curcumin và lecithin). Nghiên cứu về dược động học ở người của Cuomo và cộng sự năm 2011 đã chứng minh Meriva® làm cải thiện đáng kể sự háp thu của curcumin. Năm 2012, nhóm tác giả đến từ Italy đã sử dụng Meriva® nhằm đánh giá tác dụng của curcumin trong việc giảm các tác dụng không mong muốn gây ra do các liệu pháp điều trị ung thư, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân. Ngày 8/5/2013, nghiên cứu này được đăng tải công khai trên Wiley Online Library.

    Meriva trong hỗ trợ điều trị ung thư

    Xem thêm: Tìm hiểu những vấn đề cơ bản về Meriva® (Curcumin Phytosome)

    Nghiên cứu được thực hiện trên 160 bệnh nhân ung thư trải qua hóa trị, xạ trị sau phẫu thuật, trong đó có  80 bệnh nhân hóa trị và 80 bệnh nhân xạ trị.  Những bệnh nhân này đã thực hiện phẫu thuật trước đó ít nhất 1 tháng, chức năng gan, thận nằm trong giới hạn bình thường. Tất cả bệnh nhân đều có tình trạng tốt, điểm thang Karnofsky ≥ 70% (bảng 1); không có bệnh truyền nhiễm, chuyển hóa; không điều trị bằng một thuốc nào khác; chỉ gồm các bệnh nhân gặp TDKMM nghiêm trọng sau khi điều trị. Bệnh nhân hóa trị được hóa trị ít nhất 1 tháng sau khi phẫu thuật hoặc sau các can thiệp, không phát hiện thấy di căn trên 65% bệnh nhân, phác đồ hóa trị gồm 5-fluorouracil đơn độc hoặc phối hợp với cisplatin, vinblastine… Bệnh nhân xạ trị được xạ trị bắt đầu ít nhất 1 tháng sau khi phẫu thuật hoặc can thiệp và đã hồi phục hoàn toàn trước khi nghiên cứu, không có bệnh lý chuyển hóa, nhiễm khuẩn. Các bệnh nhân được chia ngẫu nhiên vào 2 nhóm: Nhóm A được sử dụng viên nén chứa 500 mg Meriva® (gồm 100 mg curcuminoids (tỷ lệ curcumin: demethoxycurcumin: bis-demethoxycurcumin 33: 8: 1), 200 mg lecithin đậu nành và 200 mg tá dược avicel), nhóm B được sử dụng viên nén giả dược, có hình dạng, kích thước, mùi vị tương tự Meriva® nhưng không chứa curcuminoidslecithin đậu nành. Thuốc và giả dược được sử dụng sau 3 bữa chính hàng ngày. Nghiên cứu quan sát kéo dài 4 tháng, bắt đầu từ ngày sau chu kỳ đầu tiên hóa trị và xạ trị. Meriva® đã được sử dụng giữa tuần thứ 4 và tuần thứ 16 sau phẫu thuật trong ít nhất 60 ngày liên tục.

    Bảng 1: Thang Karnofsky

    Vai trò của Meriva® trong việc làm giảm tác dụng không mong muốn của các liệu pháp điều trị ung thư

    Thời điểm nghiên cứu bắt đầu ngay sau khi bệnh nhân hoàn thành đợt điều trị hóa trị hoặc xạ trị đầu tiên (dao động từ 10 ngày đến 1 tháng) và kéo dài trong 2 tháng. Tác dụng không mong muốn được ghi lại khi thỏa mãn một trong các tiêu chí sau:

    • Thời gian dài hơn 3 ngày
    • Yêu cầu can thiệp y khoa
    • Yêu cầu điều trị hoặc nhập viện, không liên quan tới thời gian
    • Bệnh nhân không thể làm việc hoặc tham gia hoạt động xã hội

    Bệnh nhân được đánh giá trên lâm sàng sau khi hoàn thành đợt hóa trị hoặc xạ trị lần đầu và một lần nữa sau đó 2 tháng. Các tác dụng không mong muốn thoáng qua, ít nghiêm trọng hơn được bỏ qua. Mức độ nghiêm trọng của các phản ứng phụ trên cá thể được đánh giá bán định lượng bằng thang điểm từ 0 đến 10 (Bảng 2). Điểm số được xác định bởi bệnh nhân với sự trợ giúp của bác sỹ trên cơ sở nhật ký lâm sàng, y sinh học và các giá trị xét nghiệm (đối với chứng suy tim, độc gan, độc thận và độc tính mắt).

    Bảng 2: Thang đo mức độ nghiêm trọng của các phản ứng phụ trên cá thể của bệnh nhân điều trị bằng hóa trị và xạ trị (Dugall, Hosoi, Belcaro)

    Vai trò của Meriva® trong việc làm giảm tác dụng không mong muốn của các liệu pháp điều trị ung thư

     Kết quả:

    - Trong số 80 bệnh nhân hóa trị được ghi danh, có 78 người (35 đến 70 tuổi) hoàn thành nghiên cứu; 40 đối tượng được sử dụng Meriva® (Nhóm A, 20 nam, 20 nữ, tuổi trung bình 53.4 ± 6.6); 38 đối tượng được sử dụng giả dược (Nhóm B, 20 nam, 18 nữ, tuổi trung bình 50.2 ± 7.2).

    Tất cả 80 bệnh nhân xạ trị được ghi danh (35 đến 70 tuổi) hoàn thành nghiên cứu; 40 đối tượng được sử dụng Meriva® (nhóm A, 18 nam, 22 nữ, tuổi trung bình 55.8 ± 3.3); 40 đối tượng được sử dụng giả dược (Nhóm B, 21 nam và 19 nữ, tuổi trung bình 53.7 ± 4.3).

    Đánh giá về TDKMM

    Hóa trị: Tỉ lệ dấu hiệu và triệu chứng (phần trăm bệnh nhân gặp TDKMM) được biểu thị qua bảng 3a. Tỉ lệ triệu chứng được quan sát và mô tả bởi bệnh nhân và xác định bởi nhân viêm y tế thấp hơn đáng kể ở nhóm Meriva® (được gọi là giảm phần trăm bệnh nhân được mô tả triệu chứng) (p<0.05). Bảng 3b cho kết quả đánh giá bán định lượng của TDKMM. Có giá trị thấp hơn đáng kể ở nhóm điều trị Meriva® (p< 0.05) so với nhóm giả dược.

    Bảng 3a. Tỉ lệ dấu hiệu và triệu chứng (phần trăm bệnh nhân có TDKMM) do hóa trị được ghi lại sau 2 tháng.

    Vai trò của Meriva® trong việc làm giảm tác dụng không mong muốn của các liệu pháp điều trị ung thư

    Bảng 3b. Đánh giá bán định lượng ở 2 nhóm về TDKMM

    Vai trò của Meriva® trong việc làm giảm tác dụng không mong muốn của các liệu pháp điều trị ung thư

    Xạ trị: Bảng 4a so sánh TDKMM ở 2 nhóm cho thấy tỉ lệ phần trăm gặp TDKMM ở nhóm giả dược cao hơn đáng kể so với nhóm Meriva®. Kết quả đánh giá bán định lượng thể hiện ở bảng 4b. Điểm số sau 2 tháng điều trị ở nhóm Meriva® thấp hơn đáng kể so với ban đầu, trong khi đó ở nhóm giả dược sự thay đổi là không đáng kể.  Meriva® không gây ra bất kì TDKMM đáng kể nào, và dung nạp tốt, không có bệnh nhân phải ngưng sử dụng thuốc. Tuân thủ điều trị là tốt (>97%)

    Bảng 4a. Xạ trị. Tỉ lệ bệnh nhân gặp TDKMM trong 2 tháng.

    Vai trò của Meriva® trong việc làm giảm tác dụng không mong muốn của các liệu pháp điều trị ung thư

    Bảng 4b. Đánh giá bán định lượng ở 2 nhóm

    Vai trò của Meriva® trong việc làm giảm tác dụng không mong muốn của các liệu pháp điều trị ung thư

    Từ kết quả thu được, có thể quan sát thấy sự cải thiện đáng kể TDKMM ở cả nhóm hóa trị và xạ trị khi sử dụng Meriva®. Trong khi một số tác dụng rõ ràng liên quan tới tác dụng chống viêm, chống oxi hóa của Meriva® (curcumin) thì một số tác dụng khác còn khó dự đoán và chứng minh cơ chế.

    Với vai trò như một chất ức chế PgP, theo nguyên tắc, Curcumin trong Meriva®  có thể làm tăng sinh khả dụng vì vậy tăng cả hoạt tính và TDKMM của thuốc hóa trị liệu. Meriva® trong nghiên cứu này là hỗn hợp của 3 loại curcuminoid với tính chất ức chế PgP khác nhau và sự nhạy cảm với công thức lecithin là khác nhau. Thực tế, chế độ ăn có sữa dừa hoặc soloca làm tăng hấp thu của curcuminoid nhỏ (demethoxycurcumin và bis-demethoxycurcumin) nhiều hơn so với curcumin đơn phân tử. Demethoxycurcumin, một tác nhân có khả năng chống viêm cao hơn curcumin theo nhiều đánh giá là chất ức chế PgP ít hơn, còn bis-demethoxycurcumin là curcuminoid có tiềm năng nhất trong điều hóa xuống biểu hiện của gen PgP. Rối loạn đường tiêu hóa liên quan tới dùng liều lớn, tương tác với các chất chuyển hóa được xem là TDKMM chủ yếu của curcumin. Do khác nhau về khả năng tương tác của các loại curcuminoid gây ra khó khăn khi so sánh khả năng tương tác thuốc của Meriva®.

    Nghiên cứu này bị hạn chế bởi tính không đồng nhất của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu về tuổi, giới, loại bệnh và thuốc điều trị. Tuy nhiên, nó cung cấp một bằng chứng lâm sàng đầu tiên rằng curcumin khi có công thức phù hợp có thể cải thiện sự hấp thu đường uống, có thể làm giảm nguy cơ về TDKMM khi điều trị ung thư và có thể cải thiện chất lượng cuộc sống và làm tăng tỉ lệ sống cho bệnh nhân và Meriva® là một công thức của curcumin đã được Indena - Ý chứng minh là phù hợp.

    Công ty CP Dược phẩm Thiên Nguyên hiện đang phân phối nguyên liệu sản xuất thực phẩm chức năng Meriva® (Curcumin Phytosome) hàm lượng cao. Chi tiết liên hệ hotline CSKH: 0947.805.345

    Thiên Nguyên - Đồng hành cùng Doanh nghiệp

    Nguyên liệu ngành Dược, TPCN và TACN

    Có thể bạn quan tâm:

      DMCA.com Protection Status